Kinh Tập
Phiên bản Pali-Anh: Tỳ kheo Bồ-Đề
Người dịch: Lê Kim Kha
Lời Người Dịch
Kính gởi quý vị độc giả: Tập/quyển Kinh Tập (Sutta Nipāta) là một tập kinh cổ xưa nhất của Phật giáo, được cho là những lời dạy thời đầu của Đức Phật, được nói dưới dạng thi kệ (như dạng tục ngữ, ca dao). Thật ra Phật cũng nói một số lượng lớn các kinh dạng thi kệ, như nguyên Quyển 1 của Bộ Kinh Liên-Kết (SN), các tập kinh Pháp Cú, tập kinh Trưởng Lão Thi Kệ, Trưởng Lão Ni Thi Kệ … trong Bộ Kinh Ngắn (KN) và rải rác trong nhiều bài kinh văn xuôi trong các bộ kinh còn lại. [1] Bản dịch này dịch từ bản dịch và bản chú giải một cách tỉ mĩ và đối chiếu kỹ càng nhất từ tiếng Pali bởi nhà sư, học giả, nhà dịch kinh điển lỗi lạc Tỳ Kheo Bồ-Đề (TKBĐ). - Tập Kinh Tập trình bày đơn giản: gồm có 05 Chương. [2] Về số hiệu kinh trong tập Kinh Tập này: để tránh nhầm lẫn, người dịch Việt đã ghi số hiệu: như Sn 3.7 để phân biệt với kinh SN 3:07 trong Bộ Kinh SN. (Ký hiệu của tập Kinh Tập là Sn (chữ “n’ viết thường), và giữa số của Chương và số của kinh là dấu chấm “.”. Còn ký hiệu của Bộ Kinh SN là chữ “SN” viết hoa và giữa số của Chương (tương ưng) và số của kinh là dấu 02 chấm “:”.) - Kinh Sn 3.7 nghĩa là tập Kinh Tập, Chương 3, kinh số 7. Kinh SN:07 là Bộ Kinh Liên-Kết (SN), Chương 3, kinh số 07. [3] Cũng như Quyển 1 của Bộ Kinh SN và các tập kinh thi khác: người dịch Việt khi dịch đã bảo lưu toàn bộ từng câu kệ đúng theo thứ tự nguyên thủy với chữ nghĩa chính xác của từng câu để cho người đọc và người tra cứu có thể tìm, trích dẫn, tra cứu các chú giải và luận giảng cho đúng với từng chữ hay cụm chữ trong mỗi câu thi kệ. - Việc chuyển dịch tất cả các thi kệ gốc qua dạng thi ca vần điệu Việt Nam là hầu như bất khả thi, bởi vì nếu làm vậy sẽ không thể nào giữ được thứ tự, chữ và câu của mỗi thi kệ, bởi vì vần luật âm vị trong tiếng gốc và tiếng dịch đâu có tương ứng nhau. Do vậy, nếu không dịch đúng theo thứ tự từng câu kệ trong các thi kệ, hoặc chỉ dịch hàm nghĩa hay dịch phóng túng, dịch mà thay đổi thứ tự các từ ngữ và các câu kệ, thêm bớt chữ nghĩa, hay phân thành các câu kệ ngắn hơn, hay xuống hàng một cách tùy tiện: thì sẽ làm mất đi lời kinh và ngữ nghĩa nguyên thủy mà Đức Phật đã nói. - Chúng ta biết Đức Phật luôn nói các lời kinh một cách ‘rõ ràng và không thừa không thiếu’, cho nên nếu dịch mà không bảo lưu chính xác thứ tự của các chữ, số lượng các ‘chữ và nghĩa’ chính trong mỗi câu kệ, hoặc thêm hay bớt chữ: thì sẽ không dịch đúng lời kinh của Phật. - Trừ một số kinh hay thi kệ có các câu kệ quá dài người dịch phải phân thành 02 câu, chẳng hạn thi kệ 4 câu được phân thành 8 câu ngắn: những chỗ đó người dịch có ghi chú thích và dùng các dấu “,” hay “;” để người đọc biết câu kệ dài được phân thành 02 câu kệ nào. - Một số tập kinh có cách hành văn thông thường, ít thuật ngữ nghĩa sâu, ít chú giải thuật ngữ, với “các chữ thành phần” là đồng đẳng, rõ rệt, chẳng hạn như tập kinh Pháp Cú thì những người dịch có thể tách các câu kệ thành 02 câu kệ ngắn 05 chữ, thì vẫn có thể giữ được “các chữ thành phần” chính trong mỗi câu kệ mà Phật đã nói. (Ví dụ 1 câu kệ Pháp Cú thì có thể tách các chữ thành phần thành 02 câu 05 chữ : “Người nào đang sa đọa/ Không tự chủ, không thật”.) - Riêng tập Kinh Tập và Quyển SN 1 thì khó mà làm được vậy, vì phần lớn những câu kệ có các “chữ thành phần” là chính-phụ theo ngữ pháp, không phải các chữ đồng đẳng, nên rất khó mà tách ra thành những câu ngắn. (Ví dụ 02 câu kệ trong Kinh Tập: “Dù rất buồn bực khi chia ly những người thân yêu đó/ Người tu nên sống một mình như chiếc sừng tê giác” thì khó mà tách mỗi này câu thành 02 câu ngắn với số chữ bằng nhau mà vẫn giữ được toàn vẹn chữ và nghĩa của câu kinh. [4] Kinh Tập có lẽ đúng là một trong những tập kinh cổ xưa nhất của Phật giáo. Trong tập kinh này chúng ta thấy: - Lời thi kệ, câu chữ, hay giọng lời kinh có vẻ lạ và khác với đó trong các tập/ quyển/ bộ còn lại của Kinh Tạng, bởi vì có lẽ Kinh Tập giữ nguyên những lời nói mộc mạc dạng thi kệ tục ngữ trong thời đầu của Phật. (Thậm chí có những học giả cho rằng ‘Kinh Tập là thuộc thời trước-giác-ngộ của Đức Phật’!) - Có nhiều lời kinh vắn tắt trong Kinh Tập dường như là chủ-đề hay sườn-bài cho những bài kinh quan trọng trong các bộ kinh khác sau đó về các giáo lý (Phật giáo) và sự thực hành (đạo Phật). - Có rất nhiều thuật ngữ vắn tắt nhưng chúng đại diện cho những mẫu-đề (matika) hay chủ-đề giáo lý. Ví dụ ‘sinh-già’, ‘tiêu diệt sinh-già’. Đây là chữ nói tắt cho dãy chữ định nghĩa về sự khổ đau của vòng luân-hồi (sinh, già, chết; buồn sầu, than khóc, khổ đau, ưu phiền, và tuyệt vọng (sầu, bi, khổ, ưu, não)). Vì đây là các kinh dạng thi kệ bằng những câu kệ ngắn về số chữ theo thi luật vần điệu, cho nên không thể nói ra hết cả dãy chữ thuật ngữ dài như trong các kinh dạng văn xuôi. - Tất cả đều nói vắt tắt nhưng đều hàm nghĩa những giáo pháp chính và sâu sắc của Phật giáo. Ngay cả trong Chương 5 thì hầu hết các câu hỏi và trả lời vắn tắt chứa những thuật ngữ cao sâu về chặng cuối của đường tu, bởi vì 16 người hỏi đều là những môn sinh bà-la-môn trí thức, họ hỏi những vấn đề rốt ráo về giới, định, tuệ, chứng ngộ, giải thoát. - Có rất nhiều nghiên cứu, ý kiến, luận bàn về tập kinh cổ xưa này. Nhiều vấn đề cần đọc nếu ai quan tâm về mặc kinh sử và hàn lâm. Ở đây chỉ muốn lưu ý vài điểm dễ thấy như vậy. [5] Kinh Tập đi liền với đống chú giải và luận giảng về các câu chữ, thuật ngữ, nguyên từ học, điển tích, bối cảnh … đối với tất cả mỗi thi kệ! (Các phần chú giải còn lớn hơn nhiều lần so với tập kinh. Thầy TKBĐ đã dịch toàn bộ đầy đủ các phần chú giải). Bản tiếng Việt đã được dịch với tham chiếu các chú giải về chữ nghĩa và hàm nghĩa: - Những câu kinh hay thi kệ nào người bình thường đọc hiểu dễ dàng thì người dịch không ghi chú thích nữa. - Các chỗ, các chữ, các câu nào có thể khó hiểu, đọc thấy lạ (lý do như đã nói ở mục trên) và có những thuật ngữ Phật giáo thì người dịch có ghi chú thích ở cuối sách. Nhiều chỗ người dịch trích dẫn nguyên văn đoạn chú giải luôn để người đọc tự tham khảo và hài lòng với lời dịch. - Có 246 chú thích ngắn ở cuối trang là của thầy TKBĐ về nguyên từ học và đối chiếu của các chữ đó so với các phiên bản khác. [6] Lời nhắn gửi của người dịch: Quý vị nên lần lượt đọc qua các kinh thi ngắn gọn này của Phật, điều đó sẽ giúp cho tâm của quý vị càng nhận ra cái “ý nghĩa chân thực” của Phật giáo tiền thân; đừng thấy nhàm chán khi đọc. - Theo người dịch: quý vị nên đọc tập Kinh Tập này theo cách đọc kinh văn xuôi. Tức đọc từng câu và câu kế tiếp theo cách đọc văn xuôi. Cho dù bằng thi kệ, nhưng những lời Phật nói vẫn đọc và hiểu rõ ràng theo cách đọc văn xuôi. - Vì đây là bản dịch lời kinh của từng câu kinh của Phật, chứ không phải là bản chuyển thơ hay dịch phóng tác thành thi ca tiếng Việt theo vần điệu, cho nên quý vị không cần đọc theo kiểu thi kệ thi ca. Mục đích sống còn của chúng ta là hiểu được đúng lời dạy của Phật và tu tập theo đó. - Người tu học nên đọc qua những lời dạy của Phật! để càng hiểu ra những lý thuyết và lý tu mà Phật đã bắt đầu chỉ dạy cho những người nghe khác nhau. Và đọc qua các kinh cũng không mấy khó khăn hay tốn nhiều thời gian! Với các tăng và ni đã bỏ một đời để đi tu lẽ nào không bỏ ra được mấy tháng để đọc qua các kinh của Phật. Tập kinh này có thể đọc qua trong một số ngày. - Quý vị không cần phải đọc thuộc hay ghi nhớ tất cả từng chữ từng câu của Phật. Không nhất thiết như vậy. Bởi vì nếu đọc nghiêm túc và hiểu ngữ nghĩa của lời kinh thì sau đó cái tâm sẽ tự biết và ghi nhớ. Khi nào cần, tâm sẽ tự nhớ ra nếu người tu càng ngày càng tu học tấn tới. (Đó cũng là dấu hiệu tu tiến và thanh lọc tâm của người tu). - Cuối cùng, cầu mong quý vị nhìn thấy những lẽ-thực của sự sống mà Đức Phật lịch sử đã chứng ngộ và chỉ dạy lại cho chúng sinh. Mong quý vị tu tiến. Nhà Bè, mùa mưa thứ 56, PL 2568, DL 2025 |
NỘI DUNG SÁCH: